DINH DƯỠNG TRẺ EM
1. Xác
định được tầm quan trọng của việc nuôi con bằng sữa mẹ
2. Nêu
được thành phần của sữa mẹ
3. Trình
bày phương pháp nuôi con bằng sữa mẹ
4. Giải thích được vai trò
của ăn dặm đối với sức khoẻ và bệnh tật của trẻ
5. Nêu được nhu cầu
dinh dưỡng cho từng lứa tuổi.
Dinh dưỡng chiếm một vị
trí quan trọng đối với sức khoẻ trẻ em. Nó ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình
tăng trưởng, phát triển của trẻ, ảnh hưởng đến tình hình bệnh tật làm bệnh tật
dễ phát sinh, hay làm bệnh chậm lành hoặc nặng hơn ở trẻ thiếu dinh dưỡng. Vì
thế dinh dưỡng trẻ em không chỉ giới hạn về dinh dưỡng của trẻ sau sinh mà phải
bao hàm dinh dưỡng của bà mẹ lúc mang thai và xa hơn nữa là tình trạng dinh
dưỡng của mẹ trước lúc mang thai.
Sữa mẹ được sản xuất từ những tế bào của nang
sữa (tuyến vú). Xung quanh nang sữa là các tế bào cơ, nó co thắt và đẩy sữa ra
ngoài qua ống dẫn, dẫn sữa từ nang sữa ra ngoài. Ở phần quần vú , các ống trở
nên rộng hơn và hình thành các xoang sữa. Đó là nơi sữa được gom lại để chuẩn
bị cho một bữa ăn. Ống hẹp trở lại khi nó qua núm vú. Tổ chức xung quanh ống
dẫn sữa và nang sữa gồm có mô mỡ, mô liên kết, mạch máu. Tổ chức mỡ và mô liên
kết quyết định độ lớn của vú. Cuối thời kỳ thai nghén, vú lớn gấp 2 - 3 lần so
với lúc bình thường.
Khi đứa trẻ mút vú, xung động cảm giác đi từ vú
lên não tác động lên thuỳ trước của tuyến yên để bài tiết ra prolactin.
Prolactin đi vào máu đến vú làm cho các tế bào bài tiết sữa sản xuất ra sữa.
Phần lớn prolactin ở trong máu trong khoảng 30 phút sau bữa bú. Chính vì thế,
nó giúp vú tạo sữa cho bữa ăn tiếp theo. Đối với bữa ăn này, đứa trẻ bú sữa mà
nó đã có sẵn trong vú.Vì thế, cần cho trẻ bú nhiều thì vú mẹ sẽ tạo nhiều sữa.
Prolactin
thường được sản xuất nhiều về ban đêm, vì vậy nên cho con bú vào ban đêm
để duy trì việc tạo sữa .
Prolactin
làm cho bà mẹ cảm thấy thư giãn và đôi khi buồn ngủ vì thế bà mẹ có thể nghỉ
ngơi tốt ngay cả khi cho con bú vào ban đêm. Ngoài ra prolactin còn ngăn cản sự
phóng noãn vì thế có thể giúp mẹ không có thai trở lại.
Khi trẻ bú, xung động từ vú tác động lên thuỳ
sau tuyến yên để bài tiết ra oxytocin. Oxytocin đi vào máu đến vú và làm cho
các tế bào cơ chung quanh nang sữa co lại, làm cho sữa đã được tập trung vào
nang sữa chảy theo ống dẫn sữa đến xoang sữa và chảy ra ngoài. Đây là phản xạ
xuống sữa ( hay tiết sữa hoặc phun
sữa).
Oxytocin được sản xuất nhanh hơn prolactin. Nó
làm sữa trong vú chảy ra cho bữa bú này. Oxytocin có thể hoạt động trước khi
trẻ bú, khi bà mẹ chờ đợi một bữa bú. Nếu phản xạ oxytocin không làm việc tốt
thì trẻ có thể có khó khăn trong việc nhận sữa. Ngoài ra, oxytocin làm cho tử
cung mẹ go tốt sau đẻ. Phản xạ oxytocin có thể được hỗ trợ bởi sự cảm thấy hài
lòng với con mình, hoặc yêu thương con và cảm thấy tin tưởng rằng sữa của mình
tốt nhất đối với trẻ. Nhưng nó có thể bị cản trở bởi đau ốm, lo lắng hoặc nghi
ngờ về sữa của mình. Do đó, để tăng hoặc hỗ trợ cho phản xạ này cần để mẹ luôn
luôn ở cạnh con mình, và xây dựng niềm tin cho mẹ về sữa của mình.
Sự sản xuất của sữa mẹ cũng được điều chỉnh ngay
trong vú của chính nó. Người ta đã tìm thấy trong sữa mẹ có một chất có thể làm
giảm hoặc ức chế sự tạo sữa.
Trong vài tháng cuối của thai kỳ, thường có một
lượng nhỏ sữa tiết ra. Sau khi sinh, khi trẻ bú mẹ, lượng sữa được tiết ra tăng
lên nhanh chóng. Từ vài muỗng trong ngày đầu, lượng này tăng lên vào khoảng 100
ml vào ngày thứ hai, và 500 ml vào tuần lễ thứ hai. Lượng sữa sẽ được tiết ra
một cách đều đặn và đầy đủ vào ngày thứ 10 - 14 sau khi sinh. Trung bình mỗi
ngày trẻ khoẻ mạnh tiêu thụ khoảng 700 - 800 ml trong 24 giờ.
Độ lớn của vú dường như không ảnh hưởng đến số
lượng sữa, tuy nhiên vú quá nhỏ, hay không tăng kích thước trong thời gian mang
thai có thể sản xuất ít sữa
Ở những bà mẹ nuôi dưỡng kém, lượng sữa vào
khoảng 500 - 700 ml/ngày trong 6 tháng đầu, 400 - 600 ml/ngày trong 6 tháng sau
đó, và 300 - 500 ml trong năm thứ hai. Tình trạng này có thể do nguồn dự trữ
của bà mẹ bị kém (thiếu dự trữ mỡ) trong thời gian mang thai.
Thành phần của sữa mẹ thường không giống nhau,
nó thay đổi theo tuổi của trẻ và từ đầu cho tới cuối một bữa bú. Nó cũng khác
nhau giữa các bữa bú và cũng thay đổi vào những thời gian khác nhau trong ngày.
Sữa non có từ tháng thứ tư của bào thai, sản
xuất ra trong vài giờ đầu sau sinh. Có màu vàng nhạt hoặc sáng màu , đặc
quánh.
Sữa chuyển tiếp được sản xuất từ ngày thứ 7
đến thứ 14. Số lượng nhiều hơn, vú có cảm giác đầy, cứng và nặng . Một số
người gọi hiện tượng này là sữa về.
Sữa thường (sữa vĩnh viễn) được tiết ra sau tuần
lễ thứ hai sau sinh, có màu trắng lỏng.
Sữa đầu là sữa được sản xuất vào đầu một bữa bú,
có màu trong xanh. Nó được sản xuất với một khối lượng lớn. Cung cấp nhiều
protein, lactose và các chất dinh dưỡng khác. Trẻ không cần nước hoặc thêm bất
cứ loại dịch nào khác trước khi trẻ được 4 - 6 tháng tuổi vì trẻ đã nhận được
toàn bộ lượng nước cần thiết từ sữa này.
Sữa cuối là sữa được sản xuất vào cuối một bữa
bú, đục hơn vì nó chứa nhiều chất béo. Chất béo này cung cấp nhiều năng lượng
cho bữa bú.
- Protein sữa mẹ dễ tiêu, dễ hấp thu ; một phần
có thể hấp thu ngay ở dạ dày; Protein sữa mẹ chứa a lactalbumin,
casein (35%) hình thành những cục mềm lỏng dễ tiêu hoá.Trong sữa non, protein
chiếm 10%; trong sữa vĩnh viễn là 1%. Ngoài ra acid amine của sữa mẹ có cystein
và taurine cần thiết cho sự phát triển của não bộ trẻ sơ sinh. Ngoài ra sữa mẹ
còn có protein kháng khuẩn.Protein sữa bò là lactalbumin, casein chiếm
80%, không chứa các loại protein kháng khuẩn để bảo vệ cơ thể trẻ.
- Lipit : Sữa mẹ chứa acit béo không no, đây là
loại acit béo dễ tiêu, cần thiết cho sự phát triển của não, mắt và sự vững bền
của mạch máu trẻ. Sữa mẹ còn chứa lipase, gọi là lipase kích thích muối mật vì
nó khởi động các hoạt động trong ruột non với sự có mặt của muối mật. Lipase
không hoạt động trong bầu vú hoặc trong dạ dày trước khi sữa trộn với mật.
- Glucit : Đường của sữa mẹ
là b lactose rất dễ hấp thu, thích hợp cho sự phát triển của vi khuẩn
Lactobacillus bifidus. Vi khuẩn này biến b lactose thành thành acit
lactic, là loại acit ngăn cản sự phát triển của vi khuẩn gây bệnh đồng thời
giúp hấp thu dễ dàng calcium và các muối khoáng khác. Trái lại, đường của sữa
bò là b lactose, thích hợp cho sự phát triển của vi khuẩn E. coli.
- Muối khoáng
Calcium trong sữa mẹ ít hơn trong sữa bò nhưng
dễ hấp thu hơn và đủ cho trẻ phát triển.
Sắt ở trong sữa mẹ hay sữa bò đều ít (50 - 70 mg/100 ml),
nhưng vào khoảng 70% sắt trong sữa mẹ được hấp thu, trong khi so với sữa bò là
4 - 10%.
Natri, kali, phospho, clor tuy ít hơn sữa bò
nhưng cũng đủ cho nhu cầu sinh lý của trẻ. Natri trong sữa mẹ phù hợp với chức
năng của thận, trái lại, natri trong sữa bò cao nên có thể gây phù cho trẻ.
- Vitamin : Nếu mẹ ăn uống đầy đủ, trẻ bú mẹ
được cung cấp đầy đủ vitamin trong 4 - 6 tháng đầu. Lượng vitamin D ít trong
sữa mẹ nhưng trẻ bú mẹ ít bị còi xương. Lượng Vitamin C, B1, A thay đổi
phụ thuộc vào chế độ ăn của mẹ.
Đã từ lâu, việc bú mẹ đã được thừa nhận là có
khả năng bảo vệ trẻ chống lại các bệnh nhiễm trùng, đặc biệt là bệnh ỉa
chảy (bệnh ỉa chảy 1/17.3 và hô hấp 1/3.9 ở trẻ nuôi bằng sữa mẹ so với ăn nhân
tạo).
- Sữa mẹ sạch : Sữa mẹ
vô trùng.
- IgA có rất nhiều trong
sữa non, ít hơn trong sữa thường. Nó không hấp thu nhưng có tác dụng chống lại
một số vi khuẩn và virus tại ruột.
- Lactoferin : Đây là
một loại protein có ái lực với sắt. Sự liên kết này làm cho vi khuẩn không có
sắt để phát triển và đây là yếu tố bảo vệ trẻ chống lại nhiễm trùng ruột. Nếu
cho trẻ nhiều sắt, lactoferin sẽ bị bảo hoà và lượng sắt thừa sẽ giúp vi khuẩn
phát triển và gây bệnh.
- Lysozyme : Có nhiều
trong sữa mẹ gấp 1000 lần so với sữa bò. Nó có khả năng diệt một số vi khuẩn và
bảo vệ trẻ đối với một số virus .
- Interferon là chất có
khả năng ngăn cản sự hoạt động của một vài virus.
- Bạch cầu : Trong
hai tuần đầu, trong sữa mẹ có chứa 4000 bạch cầu/ml. Bạch cầu này tiết ra IgA,
lactoferin, lysozyme, interferon.
- Yếu tố bifidus : là
một carbohydrate chứa nitơ, cần thiết cho sự phát triển một Lactobacillus
bifidus, ngăn cản vi khuẩn gây bệnh phát triển
- Yếu tố phát triển biểu
bì : Có nhiều ở sữa non, kích thích sự phát triển của nhung mao
ruột, giúp cho cơ thể trẻ tránh được tình trạng dị ứng và bất dung nạp protein
sữa bò và giúp trẻ phát triển trí thông minh.
- Trong sữa mẹ người ta
còn tìm thấy một chất có tác dụng ức chế việc bài tiết sữa. Nếu sữa
được sản xuất nhiều thì chất ức chế sẽ ngăn cản sự sinh sữa của các
tế bào tiết sữa . Nếu sữa mẹ chảy ra hoặc vắt bỏ sữa thì chất ức chế cũng được
lấy ra khỏi vú, sau đó vú sẽ tạo ra sữa nhiều hơn. Vì thế, khi ngừng bú một
bên, thì vú bên đó cũng ngừng tạo sữa .
- Bú mẹ và bệnh dị ứng :
Bú mẹ có khả năng giúp trẻ tránh khỏi một số bệnh dị ứng như chàm, hen. IgA
trong sữa mẹ có thể xem như một chất chống dị ứng.
- Bú mẹ và thai nghén :
Bà mẹ cho con bú, kinh nguyệt trở lại chậm hơn so với bà mẹ không cho con bú.
Khoảng 1/3 bà mẹ cho con bú không có kinh trong 9 tháng đầu sau sinh. Tuy vậy,
vẫn có trường hợp rụng trứng trước khi có kinh.
- Bú mẹ và ung thư vú :
Tỷ lệ ung thư vú thấp ở bà mẹ cho con bú so với bà mẹ không cho con bú.
- Bú mẹ và tâm lý xã hội :Bú mẹ tạo ra một tình
cảm sâu sắc giữa mẹ và con.
Sữa mẹ là thức ăn toàn diện nhất cho trẻ, đặc
biệt là trong 6 tháng đầu của cuộc sống. Việc nuôi con bằng sữa mẹ có những lợi
ích sau :
- Sữa mẹ chứa đựng nhiều chất dinh dưỡng cần
thiết cho cơ thể trẻ.
- Cơ thể trẻ dễ hấp thu và sử dụng sữa mẹ một
cách có hiệu quả.
- Bảo vệ trẻ chống lại các bệnh nhiễm khuẩn ,
tránh một số bệnh dị ứng.
- Giúp cho trẻ phát triển tốt về tinh
thần, tâm lý và thể chất.
- Chi phí ít hơn là nuôi trẻ bằng thức ăn nhân
tạo.
- Giúp cho sự gắn bó mẹ con và làm phát triển
mối quan hệ gần gủi, yêu thương.
- Giúp cho mẹ chậm có thai.
- Bảo vệ sức khoẻ cho bà mẹ (cầm máu hậu sản
tốt, giảm tỷ lệ ung thư vú)
- Bú mẹ hoàn toàn ( tuyệt đối): nghĩa là không
cho trẻ bất cứ một đồ ăn hoặc thức uống nào ngay cả nước( trừ thuốc và viatamin
- muối khoáng hoăc sữa mẹ đã được vắt ra)
- Bú mẹ chủ yếu: nghĩa
là nuôi trẻ bằng sữa mẹ nhưng cũng cho thêm một ít nước hoặc đồ uống pha bằng
nước .
- Bú mẹ đầy đủ nghĩa là
nuôi con bằng sữa mẹ kể cả bú mẹ hoàn toàn hoặc bú mẹ là chủ yếu
- Bú mẹ một phần nghĩa
là cho trẻ bú một vài bữa sữa mẹ, một vài bữa ăn nhân tạo.
- Ăn nhân tạo nghĩa là
nuôi trẻ bằng các thức ăn mà không cho bú mẹ tí nào.
Nuôi trẻ bằng sữa mẹ chỉ
đạt được kết quả tốt khi mẹ muốn cho con bú và đặt tin tưởng vào
việc nuôi trẻ bằng sữa mẹ để hỗ trợ cho phản xạ oxytocin.Trẻ được bú đúng
phương pháp:
- Cho trẻ bú ngay sau
sinh, khoảng 1/2 giờ sau sinh và để mẹ nằm gần con.
- Sữa non phải là thức
ăn đầu tiên của trẻ để giúp ruột phát triển hoàn chỉnh và giảm tình trạng nhiễm
khuẩn do nguồn thức ăn khác đưa vào.
- Bú mẹ tuyệt đối tối
thiểu trong 4 tháng đầu.
- Cho trẻ bú theo nhu
cầu của trẻ, tránh bú theo giờ, điều này phù hợp với lượng sữa mẹ và sự phát
triển của từng trẻ.
- Đứa trẻ phải ngậm bắt
vú tốt để mút có hiệu quả.
- Đứa trẻ nên mút thường
xuyên và càng lâu càng tốt.
- Không nên cho trẻ bú
thêm sữa bò hoặc các loại nước khác.
- Vệ sinh vú và thân thể .
- Cai sữa : Chỉ nên cai sữa lúc trẻ được 18 - 24
tháng, sớm nhất là 12 tháng. Khi cai sữa trẻ phải bỏ từ từ các bữa bú. Không
nên cai sữa lúc trẻ bị bệnh hay vào lúc bị bệnh nhiễm trùng phỗ biến. Mẹ có
thai vẫn cho con bú nhưng cần thêm dinh dưỡng cho trẻ và cho mẹ.
- Săn sóc vú và đầu vú : Đầu vú nhô ra rõ vào
cuối thai kỳ vì thế nếu đầu vú phẳng hoặc tụt vào trong
cần phải hướng dẫn và làm cho đầu vú nhô ra bằng cách xoa và kéo đầu vú ra vài
lần mỗi ngày. Nếu làm không có kết quả thì sẽ cho bú qua một đầu vú phụ hoặc
nặn sữa ra và cho trẻ ăn bằng thìa và cốc
- Cho con chậm bú sau đẻ 2-3 ngày, sẽ hạn chế sự
hoạt động của tuyến vú bởi vì không có chất prolactine.
- Mẹ có bệnh: suy tim, lao, thiếu máu, suy dinh
dưỡng.
- Mẹ quá trẻ, dưới 18 tuổi, tuyến vú chưa trưởng
thành, kém tiết sữa.
- Mẹ dùng các loại thuốc ức chế sự tiết sữa:
Aspirine, kháng sinh, thuốc chống dị ứng...
- Mẹ lao động nặng.
- Mẹ buồn phiền, lo âu
sẽ hạn chế tiết prolactine.
- Khoảng cách cho bú
dài, trên 3 giờ.
- Con trên 12 tháng. Trong năm đầu lượng sữa là
1200ml/ngày; qua năm thứ hai là 500ml; năm thứ ba là 200ml/ngày.
Đó là tái lập lại sự tạo
sữa hay duy trì sũa mẹ. Được áp dụng cho trẻ còn bú mẹ mà bà mẹ vì lý do nào đó
tạm thời ít sữa.
- Để cho trẻ bú thường
xuyên: Cho trẻ bú 5 phút ở mỗi vú, 2 - 3 giờ một lần mặc dù mẹ chỉ còn ít sữa .
- Cho trẻ ăn thêm cho
đến khi mẹ đủ sữa. Trường hợp cho ăn thêm bằng sữa bò thì pha loãng 1/2 đậm độ
sữa để trẻ luôn luôn bị đói và bú mạnh thêm. Điều này không nên kéo dài một
tuần lễ. Cho trẻ ăn thêm sau khi bú mẹ và cho trẻ ăn bằng thìa và cốc.
- Mẹ phải được nghỉ ngơi
thoải mái và phải tin tưởng rằng sẽ có sữa trở lại.
- Để tăng cường biện
pháp trên đây cần phải :
- Giải thích cho bà mẹ
để bà mẹ tin tưởng rằng sẽ có sữa trở lại.
- Tìm hiểu và giải quyết nguyên nhân gây ít sữa.
Nguyên nhân gây ít sữa phổ biến là:
+
Bà mẹ cho trẻ ăn thêm sớm không cần thiết.
+
Bà mẹ lo lắng, mệt mỏi, thiếu giải thích.
+ Bà mẹ uống thuốc ngừa thai có độ oestrogen cao
- Cần giải thích cho bà
mẹ lợi ích của việc bú mẹ so với các phương pháp nuôi dưỡng khác.
- Có thể dùng thuốc gây
xuống sữa :
+ Dùng oxytocin dưới
dạng phun (Syntonon) bơm vào mũi, 4 đơn vị/lần vào một hoặc hai mũi, 2 - 3 phút
trước khi cho bú.
+ Dùng Chlorprromazine
gây kích thích sản xuất sữa đồng thời làm giảm lo lắng. Liều dùng là 10 - 25
mg, 2 - 3 lần/ngày, trong 3 - 10 ngày. Nếu cần tăng liều 50 mg (không quá 200
mg/ngày) trong 1 - 2 ngày. Sau đó giảm liều.
- Khuyến khích mẹ ăn thêm thức ăn giàu dinh
dưỡng mà gia đình có thể có. Ăn thêm khoảng 1/2 hoặc 1/4 khẩu phần ăn hằng ngày
- Nếu mẹ bị nhiễm trùng thì điều trị nhiễm trùng
nhanh và cho bú mẹ lại sớm.
Nếu làm các biện pháp
trên đây không có hiệu quả và không nhờ bà mẹ thứ hai nuôi trẻ, khi đó mới cho
trẻ ăn nhân tạo. Tuy vậy mẹ còn một ít sữa thì cần cho trẻ bú vài phút trước
khi ăn. Làm như vậy có lợi vì:
- Gia tăng giá trị dinh
dưỡng cho trẻ bằng một ít sữa mẹ.
- Trẻ được bảo vệ chống
nhiễm trùng, tuy ít còn hơn không có.
- Có được mối tình cảm giữa mẹ và con.
- Sữa có thể có trở lại
khi mẹ được an tâm.
- Cằm của trẻ chạm vào
vú
- Miệng trẻ mở rộng
- Môi dưới của trẻ đưa
ra ngoài
- Má của trẻ chụm tròn,
hoặc lõm áp vào bầu vú mẹ
- Quầng vú ở phía trên
miệng trẻ nhiều hơn ở phiếu dưới
- Vú nhìn tròn trịa
- Cằm trẻ không chạm vào
bầu vú
- Miệng của trẻ không mở
rộng
- Môi trẻ không đưa ra
ngòai hoặc môi dưới mím vào
- Má trẻ căng hoặc
lõm khi trẻ bú
- Có nhiều quầng vú mẹ ở
phía dưới miệng của trẻ hơn là ở phía trên hoặc như nhau.
- Trong thời gian trẻ
bú, vú bẹt hoặc bị kéo dài ra.
Bú mẹ là điều kiện lý tưởng để nuôi trẻ và bảo
vệ trẻ. Tuy vậy, trong một vài điều kiện sữa mẹ không có (mẹ mất , mẹ không có
sữa), hoặc sữa mẹ ít, lúc đó phải cho trẻ ăn một thức ăn khác gần giống sữa mẹ,
đó là ăn nhân tạo hoặc cho trẻ ăn vừa sữa mẹ vừa thức ăn khác, đấy là ăn hỗn
hợp. Những trường hợp trên đây thường được áp dụng cho trẻ còn nhỏ. Ăn nhân tạo
và ăn hỗn hợp cần phải được giáo dục cho bà mẹ và hướng dẫn kỹ, cũng cần phải
theo dõi chặt chẽ vì trẻ rất dễ bị nhiễm trùng và suy dinh dưỡng.
Sau đây là một số biện pháp giải quyết trong
trường hợp mẹ không có hoặc có ít sữa theo thứ tự ưu tiên :
- Tái lập lại sự tạo sữa
hay duy trì sữa mẹ
- Nuôi trẻ bằng sữa của
bà mẹ khác .
- Nuôi trẻ bằng sữa khác
sữa mẹ .
- Nuôi trẻ bằng hồ được
thêm đạm từ sữa hoặc đạm ở các nguồn gốc khác .
Chỉ áp dụng khi hai biện
pháp trên không thực hiện được. Nuôi trẻ bằng sữa khác sữa mẹ thường là sữa bò
là cách nuôi có nhiều nguy hiểm, đặc biệt đối với gia đình neo đơn và văn hoá
thấp, vì sữa rất dễ bị nhiễm khuẩn gây ỉa chảy và pha loãng gây suy dinh
dưỡng.Cần phải chọn lựa loại sữa thích hợp với kinh tế gia đình.
Bà mẹ cần phải được hướng dẫn tỉ mỉ cách sử dụng
sữa bò và trẻ phải được theo dõi luôn. Mẹ phải trực tiếp cho trẻ ăn để tạo
mối tình cảm. Khi trẻ hết ba tháng thì bắt đầu cho trẻ ăn dặm thêm :
- Nuôi nhân tạo có thể cản trở sự gắn bó mẹ con.
- Dễ mắc các bệnh như
tiêu chảy, nhiễm khuẩn hô hấp và các bệnh nhiễm khuẩn khác.Tiêu chảy có thể trở
thành tiêu chảy kéo dài.vì thế các vật dụng để xử dụng phải được rử sạch và nên
cho ăn bằng thìa bát hơn là bình bú.
- Dễ bị suy dinh dưỡng
(vì ăn ít bữa hoặc sữa quá loãng). Dễ bị thiếu vitamin A.
- Tử vong cao nếu bị
nhiễm khuẩn hay suy dinh dưỡng (so với trẻ bú sữa mẹ).
- Trẻ dễ bị chàm, hen và
các bệnh dị ứng khác. Dễ có tình trạng bất dung nạp protein sữa động vật .
- Nguy cơ mắc một số
bệnh mãn tính, chẳng hạn bệnh đái tháo đường.
- Nếu được ăn quá nhiều
sữa nhân tạo, trẻ dễ bị bệnh béo phì.
- Trí tuệ của trẻ có thể
không phát triển tốt, do đó điểm trắc nghiệm thông minh (IQ) thấp hơn.
- Bà mẹ dễ có thai trở
lại, dễ bị ung thư vú và buồng trứng
- Mẹ hoặc người vú cho
trẻ ăn để tạo mối tình cảm.
- Nên cho trẻ ăn bằng
thìa và cốc mặc dù lúc đầu có nhiều khó khăn.
- Nếu cho trẻ ăn bằng bình bú, cần đảm bảo mẹ biết cách cho ăn,
cách tiệt trùng và cách pha sữa .
- Không nên để trẻ một
mình với bình bú vì trẻ dễ bị sặc sữa. Trẻ bú bình bú thường nuốt hơi khi bình
bú nằm nghiêng. Vì thế, sau mỗi lần bú nên bế trẻ lên, vổ lưng trẻ vài cái để
đuổi hơi ra.
- Độ nóng của sữa bằng
nhiệt độ trong phòng.
- Cho trẻ ăn theo yêu
cầu: trong tháng đầu cho ăn 2 - 3 giờ 1 lần, sau đó cho ăn 4 giờ 1 lần .
- Sau khi cho ăn sữa,
cho trẻ uống thêm vài thìa nước sôi để nguội vì sữa bò thường chứa nhiều muối
trong khi thận trẻ chưa làm việc hoàn chỉnh. Khi trời nóng cho trẻ uống thêm
nước .
- Sau khi pha sữa xong
thì cho trẻ ăn ngay. Không nên để quá 1 - 2 giờ sau khi sửa soạn thức ăn.
Khi nuôi trẻ bằng bình
sữa, nên chọn loại sữa dễ kiếm, kinh tế, dễ bảo quản.
- Sữa bò, sữa dê : Loại
sữa này cần phải đun sôi, khi đun phải khuấy liên tục để tiệt trùng và cho sữa
dễ tiêu. Cần pha loãng trước khi dùng đối với trẻ 2 - 3 tháng tuổi vì thận trẻ
chưa hoàn chỉnh.
- Sữa trâu : Cần đun sôi
như sữa bò. Để loại trừ lượng mỡ chứa nhiều trong sữa cần đun sôi, để nguội và
tách váng mỡ ở trên mặt. Sữa tươi lạt nên cần cho thêm đường.
- Sữa bột toàn phần
: Sữa này có đặc điểm có thể bảo quản được lâu, nhưng dễ bị nhiễm trùng
nếu để hở. Sữa được pha với nước sôi, vì sữa lạt nên phải cho thêm đường.
- Sữa bột tách bơ : Có đặc điểm : chứa năng
lượng thấp vì đã bị lấy mỡ để làm bơ, có ít vitamin A và vitamin D (ngoại trừ
có pha thêm theo chỉ dẫn của nhà sản xuất). Chỉ dùng loại sữa này khi không có
các loại sữa khác. Cần cho thêm dầu và vitamin A. Cần giải thích cho bà mẹ rằng
việc cho thêm dầu không gây ỉa chảy cho trẻ.
- Sữa đặc có đường : Đây là loại sữa được sử
dụng rộng rãi vì rẻ tiền và bảo quản được vài ngày nếu để hở. Lượng đường
sucrose chiếm đến 40%. Tuy vậy, loại sữa này chỉ nên dùng sau các loại sữa khác
vì :
+ Sữa quá ngọt nên bà mẹ có khuynh hướng pha
loãng (có nguy cơ dẫn đến suy dinh dưỡng).
+ Tỷ lệ protein / năng
lượng rất thấp.
+ Dễ gây sâu răng.
+ Tỷ lệ vitamin A và mỡ
thấp, vì vậy cần phải cho thêm.
- Yoghurt ( sữa chua )
: Sữa này có ít đường lactose so với sữa tươi. Sữa dễ tiêu và dễ hấp thu,
có thể giữ được lâu, ít bị nhiễm khuẩn gây bệnh .
- K- mix 2 : Đây là loại
sữa của UNICEF dùng để điều trị trẻ suy dinh dưỡng nặng. Đây không phải là thức
ăn hoàn toàn, chỉ được dùng trong trường hợp cấp cứu. Sữa chứa 17% calcium
caseinate, 28% sữa tách bơ, 55% đường, có gia thêm vitamin A. Cần phải cho thêm
dầu để tăng thêm năng lượng.
- Sữa không có lactose
như Isomil, Olax dùng trong trường hợp trẻ bất dung nạp lactose do thiếu
lactase
Trường hợp này được áp
dụng cho trẻ 3 tháng tuổi khi không có hoặc ít sữa mẹ. Cần phải chọn lọc thức
ăn có giá trị dinh dưỡng cao, bảo đảm sạch sẽ tránh bị nhiễm khuẫn. Khi nuôi
trẻ cần phải có 4 thành phần chủ yếu :
- Bột nấu thành hồ: bột gạo , bột mì.
- Thức ăn giàu protein :
sữa, đạm động vật hoặc hỗn hợp đạm động vật và thực vật.
- Thức ăn giàu năng
lượng : dầu , bơ, đường .
- Thức ăn có vitamin và
muối khoáng: trái cây, lá rau xanh ít chất xơ, có thể có thêm vitamin .
Ăn dặm là ăn dần dần
những thức ăn của người lớn kèm thêm với sữa mẹ. Thời kỳ ăn dặm là thời kỳ ăn
chuyển tiếp để trẻ thích nghi dần dần với chế độ ăn của người lớn, và trong
thời kỳ này, chế độ ăn của trẻ thay đổi từ sữa mẹ sang chế độ ăn của gia đình.
Ăn dặm là phù hợp với sinh lý, để giúp trẻ có đủ
năng lượng, protein và các thứ khác để trẻ phát triển đầy đủ. Bên cạnh đó sữa mẹ
cần phải được tiếp tục cho trẻ.
Nếu ăn dặm không được thực hiện đúng
phương pháp , thì nó cũng đem lại một số nguy hiểm cho trẻ như:
- Đem lại hậu quả về tâm
lý và dinh dưỡng rất xấu đối với trẻ nếu ăn dặm được áp dụng một cách đột ngột.
Vì thế ăn dặm phải diễn biến từ từ.
- Trẻ rất dễ mắc các
bệnh nhiễm trùng, đặc biệt là nhiễm trùng tiêu hoá như lỵ, ỉa chảy, giun đũa.
- Trẻ cũng rất dễ bị suy
dinh dưỡng, bởi vì gia đình không hiểu nhu cầu dinh dưỡng của trẻ, không biết
chọn lọc thức ăn nào có giá trị dinh dưỡng cao và có sẵn tại địa phương, hoặc
gia đình có kinh tế thấp không đủ tiền mua thức ăn có dinh dưỡng cao.
Bên cạnh đó còn tồn tại một số phong tục tập
quán trong cách ăn dặm : ăn thức ăn đơn điệu, cho trẻ ăn thức ăn cứng khi trẻ
chưa mọc răng đầy đủ
Thời kỳ bắt đầu cho ăn dặm thay đổi tuỳ theo nơi, có nơi cho ăn
rất sớm lúc 2 – 3 tháng, có nơi muộn. Tại Thừa Thiên Huế, 80%
bà mẹ nông thôn và thành phố cho ăn dặm vào tháng thứ 3. Cho ăn sớm với thức ăn
có giá trị dinh dưỡng thấp và cũng như thức ăn không hợp vệ sinh là nguyên nhân
của ỉa chảy và suy dinh dưỡng.
Thời kỳ bắt đầu ăn dặm là từ 5-6 tháng tuổi.
Thức ăn dặm cần phải phong phú, đầy đủ dinh
dưỡng, dễ kiếm, rẻ tiền và thường dùng trong các gia đình.
Thức ăn dặm gồm : Thức
ăn hỗn hợp cơ bản với hai thành phần gạo, khoai, và protein từ thực vật và động
vật (đậu , thịt, cá..)
Thức ăn hỗn hợp phong phú với hai thành phần
trên cùng với rau quả và mỡ, dầu, đường.
- Thức ăn dặm cần phải
đầy đủ các chất.
- Cần biết rõ năng
lượng, lượng đạm và các thành phần khác .
- Chọn loại ngũ cốc
thông thường là gạo, bột mì.
- Chọn loại đạm rẻ tiền,
dễ kiếm.
- Tính lượng ngũ cốc,
đạm, và lượng nước để nấu sao cho có lượng thức ăn mỗi bữa vừa với dạ dày của
trẻ.
- Tính năng lượng cho
hỗn hợp.
- Chọn rau quả có đủ
vitamin và muối khoáng, nên chọn rau xanh đậm và trái cây vàng.
- Chọn thức ăn có nhiều
năng lượng như dầu mỡ. Tuy vậy, năng lượng từ dầu mỡ không chiếm quá 25 - 30%
tổng số năng lượng chung.
- Nên chọn cách nấu đơn
giản, ít tốn kém và ít thời gian sửa soạn để khỏi gây mệt cho mẹ.
- Thức ăn dặm có thể
biểu thị bằng ô vuông thức ăn sau :
- Bắt đầu cho ăn từ ít đến nhiều. Cho ăn hỗn hợp
cơ bản trong vòng 2 tuần sau đó cho ăn hỗn hợp phong phú.Hằng ngày nên đảm bảo
có đủ 4 nhóm thức ăn kể trên.
- Lúc đầu cho ăn một bữa
sau đó đến khoảng 6 tháng thì có thể cho ăn ngày 2 - 4 bữa (trẻ nhỏ dạ dày bé,
nên cho ăn bữa nhỏ, đến lúc trẻ 1 - 3 tuổi thì mỗi lần có thể cho ăn từ
200 - 300 ml).
- Lúc đầu cho trẻ ăn
những thức ăn lỏng, sau đó đặc.Khi có có răng để nhai, nên chuyển sang thức ăn
cứng. Đến 2 tuổi thì có thể cho ăn như người lớn, và lúc 2 tuổi có thể cho ăn
được 1/2 khẩu phần ăn của người lớn.
- Nên tập cho trẻ tự ăn
nhưng phải theo dõi.
- Không nên ép trẻ ăn,
cần phải kiên nhẫn nếu trẻ từ chối ăn.
- Cho trẻ ăn bằng thìa
và bát vì hợp vệ sinh, dễ rữa, rẻ tiền, dễ kiếm.
- Cho ăn dặm sau khi bú
mẹ để trẻ bú mạnh.
- Thức ăn phải đảm bảo
sạch và an toàn.
- Mẹ và trẻ cần phải rửa
tay trước khi ăn. Mẹ cũng cần phải rửa tay trước và sau khi chế biến thức ăn.
- Các dụng cụ cho ăn và
nấu cần phải được rửa sạch. Nếu cần phải nấu, phơi nắng và đậy kỹ.
- Thức ăn cần phải đậy.
- Thức ăn cần phải tươi
và cần phải nấu lại trước khi cho ăn.
- Không cho trẻ ăn những
thức ăn làm sẵn để quá 1 - 2 giờ. Khi thời tiết nóng, mặc dù đã được nấu kỹ,
cần phải để chỗ mát. Không cho trẻ ăn thức ăn để qua đêm.
Trong thời kỳ ăn dặm, trẻ thường bị bệnh nhiễm
trùng như ho gà, sởi, ỉa chảy. Nếu trẻ được cho ăn đầy đủ thì bệnh thường nhẹ,
nhưng sẽ nặng nếu trẻ có dinh dưỡng kém. - - - Khi trẻ ốm, trẻ cần được ăn tốt
hơn để chống lại bệnh
- Phải tiếp tục cho bú
mẹ mặc dù trẻ bị ỉa chảy.
- Cho uống nước đầy đủ ,
đặc biệt khi trẻ bị ỉa chảy.
- Cho trẻ ăn thức ăn mềm
và lỏng, tránh thức ăn kích thích.
- Cho trẻ ăn những bữa
nhỏ.
- Cần cho trẻ thêm
vitamin A.
- Khi trẻ khỏi, cần cho ăn thức ăn giàu năng
lượng như dầu, đường , đạm, và tăng thêm 1 bữa ăn trong ngày cho đến khi trẻ
lấy lại cân nặng bình thường
.
3 tháng đầu : 120
- 130 Kcalo
4 - 6 tháng tuổi :
100 - 120 Kcalo
7 - 12 tháng tuổi
: 100 - 110 Kcalo
1000 ml sữa mẹ cho : 600
- 700 Kcalo.
4.1.2.
Nhu cầu các chất
Protein : 2 - 2,5
gr.
Lipit : 6 - 7 gr.
Đường : 12 - 14
gr.
Tỷ lệ protein / mỡ / đường = 1 / 3 / 6.
100 gr. sữa mẹ có :
Năng lượng : 70 Kcalo.
Mỡ : 4.2gr.
Vitamin A : 60 g.
Vitamin C : 3.8 mg.
Sắt : 0.08 mg.
Tuổi
|
Kcalo
|
Protein
|
Lipid
|
Glucid
|
1-3
|
100
|
4-4,5
|
4-4,5
|
12-15
|
4-6
|
100
|
3,5
|
3,5
|
12
|
7-12
|
80
|
3
|
3
|
12
|
13-17
|
70
|
2,5
|
2,5
|
3-10
|
Tuổi
|
VitaminA
(mg)
|
b carotene
(mg)
|
Vit B1
(mg)
|
Vit B2
(mg)
|
Vit PP (mg)
|
Vit C
(mg)
|
0-11 th
|
300
|
600
|
0,4
|
0,6
|
6,6
|
30
|
1-3T
|
250
|
500
|
0,5
|
0,7
|
8,6
|
30
|
4-6T
|
300
|
600
|
0,7
|
8,6
|
1,2
|
30
|
7-9T
|
400
|
800
|
0,8
|
1,2
|
13,9
|
30
|
10-12T
|
575
|
1150
|
1
|
1,4
|
16,5
|
30
|
13-15T
|
725
|
1450
|
1,2-2 *
|
1,7-1,4*
|
20,4-17,2*
|
30
|
( * Nhu cầu Nam- Nữ)
1.Tài liệu giảng dạy của
bộ môn nhi Huế( giáo trình của bộ môn nhi Huế)
2. Bài giảng Nhi Khoa
của Bộ Môn Nhi- Trường đại học y khoa TP HCM (2000)
3. bài giảng Nhi Khoa Bộ
Môn Nhi- Đại học Y Khoa Hà Nôi ( 2000)
4 Bộ y tế (2003). Xử trí
lồng ghép các bệnh thường gặp ở trẻ em. Nhà xuất bản y học (2003)
5. Nelson (2000) . Text book of
pediatrics. Behrman and Vaughan(NGUỒN: https://sites.google.com/site/cuongtanvoydk34/y-khoa-online)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét